Ung thư tuyến tiền liệt phát triển khi các tế bào bất thường trong tuyến tiền liệt phát triển một cách mất kiểm soát, tạo thành khối u ác tính.
Ung thư tuyến tiền liệt là gì?
Ung thư tuyến tiền liệt là bệnh ung thư phổ biến thứ hai được chẩn đoán ở nam giới và là nguyên nhân tử vong do ung thư phổ biến chỉ sau Ung thư phổi và Ung thư gan. Cứ 6 người đàn ông thì có một người được chẩn đoán mắc bệnh ung thư tuyến tiền liệt ở độ tuổi 85. Bệnh này phổ biến hơn ở nam giới lớn tuổi, với hơn 63% trường hợp được chẩn đoán ở nam giới trên 65 tuổi.
Ung thư tuyến tiền liệt giai đoạn đầu chỉ phát triển âm thầm trong tuyến tiền liệt mà chưa lan sang các bộ phận khác. Có hai giai đoạn ung thư tuyến tiền liệt tiến triển:
– Ung thư tuyến tiền liệt tiến triển cục bộ nơi ung thư đã lan ra bên ngoài tuyến tiền liệt đến các bộ phận lân cận của cơ thể hoặc các tuyến gần với tuyến tiền liệt
– Ung thư tuyến tiền liệt di căn nơi ung thư đã di căn đến các bộ phận khác của cơ thể.
Năm 2018, có 3264 trường hợp tử vong do ung thư tuyến tiền liệt. Tỷ lệ sống sót sau năm năm đối với ung thư tuyến tiền liệt là 95%.
Nguyên nhân
Một số yếu tố có thể làm tăng nguy cơ ung thư tuyến tiền liệt bao gồm:
- Độ tuổi: tăng nhanh sau 50 tuổi
- Tiền sử gia đình bị ung thư tuyến tiền liệt: ung thư vú hoặc ung thư buồng trứng , đặc biệt là đột biến gen BRCA1 và BRCA2
- Bố hoặc anh trai được chẩn đoán mắc bệnh ung thư tuyến tiền liệt trước 60 tuổi. Có mối liên quan với mức testosterone cao.
Triệu chứng
Ung thư tuyến tiền liệt giai đoạn đầu thường không gây ra các triệu chứng. Các triệu chứng ung thư tuyến tiền liệt khi bệnh tiến triển có thể bao gồm:
- Đi tiểu thường xuyên
- Tiểu buốt, tiểu dắt
- Đau buốt khi đi tiểu
- Có lẫn máu trong nước tiểu hoặc tinh dịch
- Dòng chảy khi đi tiểu yếu hoặc nhỏ (kiểu như bị vật gì chèn)
- Đau lưng hoặc xương chậu
- Yếu chân hoặc bàn chân.
- Bệnh lan rộng hơn thường lan vào xương và gây đau đớn hoặc giảm cân không rõ nguyên nhân và mệt mỏi.
Chẩn đoán
Xét nghiệm máu PSA
Xét nghiệm máu kháng nguyên đặc hiệu tuyến tiền liệt (PSA) đo mức PSA, loại protein được tạo ra bởi cả tế bào tuyến tiền liệt bình thường và ung thư. Bởi vì mức PSA có thể thay đổi, bác sĩ của bạn thường sử dụng kết quả từ nhiều lần xét nghiệm máu, theo thời gian, để giúp xác định nguy cơ ung thư tuyến tiền liệt của bạn.
Kiểm tra trực tràng
Kiểm tra trực tràng không còn được khuyến khích làm xét nghiệm thường quy cho nam giới không có các triệu chứng của ung thư tuyến tiền liệt. Vì không phải tất cả các bệnh ung thư tuyến tiền liệt đều tạo ra mức PSA cao, nên nó vẫn có thể được sử dụng để kiểm tra tuyến tiền liệt trước khi làm sinh thiết.
Sinh thiết
Sinh thiết loại bỏ các mảnh mô nhỏ từ các phần khác nhau của tuyến tiền liệt với sự hỗ trợ của siêu âm trực tràng, để kiểm tra dưới kính hiển vi. Nó được sử dụng để phát hiện bệnh.
Kiểm tra thêm
Ngoài các phương pháp trên bạn có thể làm các xét nghiệm khác như chụp MRI, CT hoặc quét xương để xem liệu bạn có mắc ung thư tuyến tiền liệt hay không? Hoặc giúp phát hiện sớm để đưa ra các lựa chọn điều trị thích hợp.
Điều trị
Xạ trị
Xạ trị sử dụng chùm tia năng lượng cao để tiêu diệt tế bào bệnh. Cùng với phẫu thuật, đây là một trong hai phương pháp điều trị chính phổ biến nhất cho bệnh ung thư tuyến tiền liệt. So với phẫu thuật, nó giúp kiểm soát đường tiểu tốt hơn nhưng có nhiều khả năng gây kích thích ruột và bàng quang. Cả hai đều có thể gây rối loạn cương dương.
Có một số loại xạ trị khác nhau mà bác sĩ khuyên bệnh nhân ung thư tuyến tiền liệt:
- Xạ trị điều biến cường độ (IMRT): IMRT tập trung nhiều chùm bức xạ có cường độ khác nhau trực tiếp vào khối u để có liều cao nhất có thể. Các bác sĩ ung thư bức xạ sử dụng phần mềm lập kế hoạch đặc biệt để đảm bảo bệnh nhân được đặt đúng vị trí để điều trị chính xác nhất.
- Xạ trị toàn thân lập thể (SBRT) : Còn được gọi là xạ trị triệt tiêu lập thể (SABR), SBRT sử dụng liều lượng bức xạ rất cao, sử dụng một số chùm tia có cường độ khác nhau nhằm vào các góc độ khác nhau để nhắm chính xác vào khối u. Điều trị này thường mất khoảng 10 ngày, ngắn hơn đáng kể so với các hình thức xạ trị khác.
- Brachytherapy: tiến hành xạ trị với các mảnh nhỏ của chất phóng xạ (thường có kích thước bằng hạt gạo) được đặt vào bên trong cơ thể bệnh nhân càng gần khối u càng tốt. Điều này cho phép các bác sĩ cung cấp liều lượng bức xạ cao, trực tiếp vào khối u của bệnh nhân trong khi hạn chế sự tiếp xúc của bức xạ với mô khỏe mạnh.
- Liệu pháp proton : Đây là loại liệu pháp tương tự như liệu pháp bức xạ truyền thống, nhưng nó sử dụng một loại bức xạ khác và chính xác hơn nhiều để nhắm vào các khối u.
- Liệu pháp phóng xạ: Loại xạ trị này thực sự được thực hiện thông qua IV. Nó được sử dụng để điều trị ung thư tuyến tiền liệt di căn xương.
Phẫu thuật
Phẫu thuật ung thư tuyến tiền liệt được biết đến như một phương pháp cắt bỏ tuyến tiền liệt triệt để. Trong thủ tục này, bác sĩ phẫu thuật cắt bỏ toàn bộ tuyến tiền liệt. Các hạch bạch huyết gần tuyến tiền liệt cũng có thể được loại bỏ để tìm bằng chứng cho thấy bệnh đã lây lan.
Gần như tất cả các ca phẫu thuật ung thư tuyến tiền liệt tại MD Anderson đều là những thủ thuật xâm lấn tối thiểu được thực hiện bằng robot phẫu thuật. Những ca phẫu thuật này giúp vết mổ nhỏ hơn, ít mất máu hơn, ít đau hơn và thời gian nằm viện ngắn hơn.
Phẫu thuật ung thư tuyến tiền liệt thường phải nằm viện qua đêm. Bệnh nhân phải đeo ống thông tiểu trong khoảng một tuần sau thủ thuật. Họ thường có thể trở lại làm việc sau hai tuần. Không có hạn chế về hoạt động sau bốn tuần.
Liệu pháp hormone
Phần lớn ung thư tuyến tiền liệt nhạy cảm với hormone, có nghĩa là hormone nam (androgen) như testosterone thúc đẩy sự phát triển của ung thư. Khoảng một phần ba số bệnh nhân ung thư tuyến tiền liệt cần liệu pháp hormone. Phương pháp điều trị này làm giảm kích thước khối u hoặc làm cho khối u phát triển chậm hơn nhưng không chữa khỏi bệnh.
Có hai loại liệu pháp hormone chính cho bệnh nhân ung thư tuyến tiền liệt:
Kháng nguyên tố: Kháng nguyên tố ngăn chặn testosterone và các nội tiết tố androgen khác tương tác với tế bào ung thư. Kháng nguyên tố thường được sử dụng kết hợp với các chất ức chế tổng hợp androgen.
Thuốc ức chế tổng hợp androgen: Những loại thuốc này làm giảm nồng độ testosterone và các nội tiết tố androgen khác do cơ thể sản xuất. Một loại chất ức chế tổng hợp androgen chính là chất chủ vận LHRH. Chúng hoạt động bằng cách kích thích quá mức tuyến yên để sản xuất hormone giải phóng hoàng thể (LHRH). Điều này gây ra sự gia tăng testosterone ban đầu, sau đó là tinh hoàn sản xuất testosterone thấp hơn. Thuốc ức chế tổng hợp androgen được cung cấp bằng cách tiêm, kéo dài từ một đến sáu tháng, hoặc bằng các viên nhỏ được cấy dưới da.
Liệu pháp hormone thường được sử dụng nhất cho các khối u giai đoạn muộn, cấp độ cao với điểm Gleason từ 8 trở lên hoặc ở những bệnh nhân bị ung thư đã di căn ra ngoài tuyến tiền liệt.
Liệu pháp hormone có thể được sử dụng để điều trị ung thư tuyến tiền liệt nếu:
- Không thể phẫu thuật hoặc xạ trị
- Ung thư đã di căn (lan rộng) hoặc tái phát (trở lại sau khi điều trị)
- Ung thư có nguy cơ tái phát cao sau xạ trị
- Thu nhỏ ung thư trước khi phẫu thuật hoặc xạ trị tăng cơ hội điều trị thành công
Các tác dụng phụ của liệu pháp hormone đối với ung thư tuyến tiền liệt có thể bao gồm:
- Bất lực, không có khả năng duy trì sự cương cứng
- Mất ham muốn tình dục
- Nóng ran
- Kích thích sự phát triển của mô vú
- Mất khối lượng cơ, suy nhược
- Gây loãng xương
- Tinh hoàn teo lại
- Căng thẳng, Stress, Mệt mỏi
- Thiếu máu (số lượng hồng cầu thấp)
- Tăng cân
- Mức cholesterol cao hơn
- Tăng nguy cơ đau tim, tiểu đường và huyết áp cao (tăng huyết áp)
Nếu bạn đang điều trị bằng liệu pháp hormone và gặp các tác dụng phụ, hãy nhớ đề cập với bác sĩ của bạn. Nhiều tác dụng phụ này có thể được điều trị thành công.
Hóa trị
Thuốc hóa trị được thiết kế để tiêu diệt các tế bào phát triển nhanh, bao gồm cả tế bào ung thư. Đối với ung thư tuyến tiền liệt, hóa trị liệu thường được sử dụng để điều trị cho những bệnh nhân mắc bệnh có nguy cơ cao hoặc ung thư đã tái phát hoặc di căn.
Phương pháp áp lạnh
Mặc dù hiếm khi được sử dụng nhưng phương pháp áp lạnh lại là lựa chọn tốt nhất để chăm sóc bệnh nhân trong một số trường hợp ung thư tuyến tiền liệt, chẳng hạn như các điểm mà ung thư tuyến tiền liệt đã di căn. Trong các thủ thuật này, một đầu dò dài và mỏng được đưa vào khối u, làm đông lạnh và tiêu diệt tế bào ung thư. Theo dõi chuyên sâu bằng tia X hoặc các thủ thuật hình ảnh khác được sử dụng để đảm bảo rằng khối u đã bị tiêu diệt.